Nuôi tôm công nghệ cao – bước đột phá mang lại hàng chục tỷ đồng mỗi năm
Nếu trước đây, nghề nuôi tôm ở Bến Tre còn phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm, dễ rủi ro bởi dịch bệnh và biến động môi trường, thì nay bức tranh đã khác. Với gần 4.000 ha nuôi tôm nước lợ ứng dụng công nghệ cao, tỉnh đang trở thành một trong những "thủ phủ tôm công nghệ" của cả nước.
Những trang trại quy mô hàng chục héc-ta được trang bị máy cho ăn tự động, hệ thống tạo ô-xy, sục khí clo, cảm biến nhiệt độ và độ mặn thông minh. Các ao nuôi phủ bạt đáy, nước được xử lý và tái tuần hoàn, đảm bảo an toàn sinh học. Nhờ vậy, năng suất trung bình đạt 40–60 tấn/ha, thậm chí có hộ đạt 70–80 tấn/ha, cao gấp 3–4 lần so với mô hình truyền thống.

Mô hình nuôi tôm công nghệ cao có quy mô lớn ở Thạnh Phú (Bến Tre).
Tiêu biểu là gia đình ông Đặng Văn Bảy ở xã Thạnh Phong đã tiên phong đầu tư hơn 40 ha trang trại nuôi tôm công nghệ cao, với doanh thu mỗi năm lên tới 700–800 tấn tôm thương phẩm, lợi nhuận hơn 40 tỷ đồng. Ông Đặng Văn Bảy chia sẻ:
"Nuôi tôm theo hướng công nghệ cao giúp kiểm soát rủi ro, giảm chi phí nhân công, tăng chất lượng và ổn định thị trường. Đó là cách duy nhất để nghề nuôi phát triển bền vững."
Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường Bến Tre, chỉ trong 5 năm, tỉnh đã đầu tư hơn 250 tỷ đồng hoàn thiện hạ tầng điện, đường, thủy lợi phục vụ các vùng nuôi tôm công nghệ cao. Kết quả không chỉ giúp người dân tăng năng suất mà còn giảm giá thành sản xuất, đảm bảo an toàn môi trường, đưa giá trị ngành tôm ứng dụng công nghệ cao đạt hơn 10.800 tỷ đồng, chiếm gần 60% giá trị toàn ngành.
Công nghệ sinh học mở đường cho sản xuất giống chất lượng cao
Không chỉ dừng ở con tôm, Trung tâm Giống và Hoa kiểng tỉnh Bến Tre đang trở thành "trái tim công nghệ" của ngành nông nghiệp địa phương. Tại đây, hàng trăm nghìn cây giống được nhân bằng kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào, giúp đảm bảo chất lượng, đồng nhất về gen và khả năng chống chịu tốt.
Trung tâm hiện ứng dụng mã QR Barcode Scanner TeaCapps để quản lý, truy xuất nguồn gốc cây giống. Mỗi sản phẩm đều có hồ sơ điện tử, giúp người dân dễ dàng kiểm tra xuất xứ, quy trình nuôi cấy và nhà cung cấp. Đây là bước tiến quan trọng trong chuyển đổi số nông nghiệp, nâng cao uy tín và tính minh bạch của sản phẩm.
Những giống cây được nuôi cấy tại trung tâm trải rộng từ hoa kiểng, dược liệu, cây ăn trái ngắn ngày đến các loại giống đặc sản như chuối, dứa MD2, chà là, gừng, hoa lan... Không chỉ phục vụ thị trường trong tỉnh, sản phẩm còn được đặt hàng từ các tỉnh lân cận và doanh nghiệp xuất khẩu.
Khoa học – công nghệ trở thành động lực phát triển nông nghiệp bền vững
Theo Sở Khoa học và Công nghệ Bến Tre, giai đoạn 2020–2025, tỉnh đã triển khai 125 nhiệm vụ khoa học công nghệ ở các cấp, tạo ra 6 giống mới, 147 mô hình, 116 quy trình kỹ thuật và hơn 200 sáng kiến. Các nghiên cứu tập trung vào thích ứng biến đổi khí hậu, nuôi trồng bền vững và xử lý môi trường, như: Quy trình nhân giống cua biển, nuôi hàu thương phẩm và tôm càng xanh thích ứng nước mặn; Công nghệ xử lý nước thải ao tôm bằng vi sinh và tuần hoàn nước; Nuôi cá hồng Mỹ bằng thức ăn công nghiệp, năng suất đạt 8 tấn/ha; Sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh từ phụ phẩm nông nghiệp.
Ông Huỳnh Trung Tính, Phó Giám đốc Sở KH&CN Bến Tre, cho biết: "Mục tiêu của chúng tôi là đưa công nghệ trở thành nền tảng phát triển nông nghiệp xanh, thông minh – từ phòng thí nghiệm đến cánh đồng, từ sáng chế đến sản phẩm OCOP, từ nông hộ đến hợp tác xã."
Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh cũng đóng vai trò tích cực, với hơn 117 đề tài nghiên cứu và 96 sáng kiến được ứng dụng vào đời sống. Những kết quả này không chỉ giúp chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hàng hóa, mà còn nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân nông thôn.
Từ "nông dân tỷ phú" đến cộng đồng đổi mới sáng tạo
Cùng với làn sóng công nghệ, phong trào "Nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi" tại Bến Tre đã trở thành biểu tượng của tinh thần đổi mới sáng tạo ở nông thôn. Toàn tỉnh hiện có hơn 10.700 hộ đạt danh hiệu cấp tỉnh và trung ương, trong đó nhiều hộ có doanh thu hàng tỷ đồng mỗi năm.
Các mô hình "nông dân tỷ phú" trải dài từ nuôi tôm công nghệ cao, trồng nhãn, mai vàng, kiểng bonsai, đến chăn nuôi tuần hoàn, trồng cây hữu cơ. Đáng chú ý, ông Nguyễn Văn Đoàn ở xã Thới Thạnh (huyện Thạnh Phú) – người sáng tạo mô hình nuôi tôm càng xanh toàn đực, bẻ càng 3 lần/vụ – đã giúp tăng năng suất và giá trị sản phẩm, cho thu nhập hơn 500 triệu đồng/năm.
Những nông dân như ông Đoàn không chỉ làm giàu cho mình mà còn chia sẻ kinh nghiệm, hướng dẫn kỹ thuật cho hàng chục hộ khác. Đến nay, riêng xã Thới Thạnh đã có 42 hộ nuôi tôm càng xanh toàn đực trên diện tích hơn 100 ha, tạo thành vùng sản xuất hàng hóa có liên kết thị trường ổn định.
Bên cạnh đó, Câu lạc bộ Nông dân Tỷ phú tỉnh Bến Tre với 358 thành viên đang trở thành "hạt nhân tri thức" trong cộng đồng. Họ không chỉ hỗ trợ nhau về vốn, kỹ thuật mà còn góp phần lan tỏa tinh thần đổi mới sáng tạo, giúp hàng trăm hộ nghèo thoát nghèo bền vững.
Liên kết "4 nhà" và chuyển đổi số – chìa khóa cho nông thôn mới kiểu mẫu
Điểm nổi bật trong chiến lược phát triển nông nghiệp của Bến Tre là liên kết "4 nhà" – Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp và nhà nông – trong mọi chuỗi giá trị sản xuất.
Chính quyền địa phương không chỉ đầu tư hạ tầng, mà còn tạo cơ chế để doanh nghiệp, viện nghiên cứu và hợp tác xã cùng tham gia vào chuỗi cung ứng – chế biến – tiêu thụ sản phẩm. Tỉnh đang thúc đẩy số hóa quy trình sản xuất, truy xuất nguồn gốc và thương mại điện tử để nông sản Bến Tre có thể đến trực tiếp tay người tiêu dùng trong và ngoài nước.
Các hợp tác xã được khuyến khích sử dụng nền tảng số quản lý sản xuất, ứng dụng drone, cảm biến IoT, phân tích dữ liệu môi trường, giúp tối ưu nguồn lực và bảo đảm tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP. Đây là những bước đi cụ thể nhằm hướng tới nông nghiệp thông minh, nông dân số và nông thôn số.
Không chỉ tập trung vào sản xuất lớn, nhiều làng nghề truyền thống ở Bến Tre cũng đang chuyển mình theo hướng công nghệ. Các tổ hợp tác, chi hội nghề nghiệp tại huyện Chợ Lách – "thủ phủ hoa kiểng" miền Tây – đã áp dụng quy trình trồng hoa, mai vàng bằng cảm biến tưới tự động, sử dụng đèn led kích thích ra hoa, ứng dụng sàn thương mại điện tử để bán sản phẩm.
Nhờ đó, nhiều hộ thu nhập hàng tỷ đồng mỗi năm, điển hình như mô hình trồng mai vàng của anh Nguyễn Văn Tâm (lợi nhuận 6 tỷ đồng/năm) hay kiểng treo của bà Nguyễn Thị Nga (1,2 tỷ đồng/năm). Những mô hình này vừa tạo việc làm, vừa gìn giữ bản sắc văn hóa làng nghề, đồng thời thúc đẩy kinh tế xanh và du lịch sinh thái nông thôn.
Trong giai đoạn tới, Bến Tre xác định rõ mục tiêu: chuyển từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp, từ quy mô hộ nhỏ lẻ sang liên kết chuỗi giá trị lớn, từ sản xuất truyền thống sang ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số. Đến năm 2030, tỉnh phấn đấu mỗi huyện, thành phố đều có ít nhất một mô hình nông nghiệp công nghệ cao tiêu biểu, một làng nghề số hóa hoàn chỉnh và một hợp tác xã kiểu mới hoạt động theo chuỗi giá trị số.